Hậu sự Tuệ_Hiền_Hoàng_quý_phi

Hoàng đế tôn trọng

Năm Càn Long thứ 15 (1752), bà được tạm an trong Tĩnh An trang (静安庄) thuộc Thanh Đông lăng. Sau khi bà mất, Càn Long Đế rất thương tiếc, thường làm thơ điếu tặng bà, gọi là "Tuệ Hiền Hoàng quý phi vãn thi điệp cựu tác xuân hoài thi vận" (慧賢皇貴妃挽诗叠旧作春怀诗韵).

Theo ngự chế thơ của Càn Long Đế, cùng với tế văn Tuệ Hiền Hoàng quý phi của Cao thị, đương thời Cao thị khi còn là Quý phi rất được lòng Càn Long Đế và Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, được đương thời gọi là [Tá trợ Trung cung; 佐助中宫], sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời thì Càn Long Đế còn treo bức họa của Tuệ Hiền Hoàng quý phi bên cạnh tranh của Hoàng hậu trong Trường Xuân cung. Bà cũng là người có hiểu biết thi thơ, rất được Càn Long Đế tán thưởng, gọi là "Vưu đam văn chương" (尤耽文翰). Sau khi Cao thị qua đời, hậu cung lâm vào trạng thái điếu ai trong một thời gian dài. Càn Long Đế cứ đến mỗi ngày giỗ của bà đều làm thơ tiếc thương. Ngoài Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, thì Tuệ Hiền Hoàng quý phi là phi tần duy nhất khiến Càn Long Đế qua nhiều năm vẫn giữ việc viết thơ tưởng nhớ như vậy.

Năm Càn Long thứ 17 (1754), ngày 17 tháng 10 (âm lịch), bà được an táng vào địa cung Dụ lăng, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần hoàng hậuTriết Mẫn Hoàng quý phi. Bà là một trong số 5 vị hậu phi hiếm hoi được an táng cùng Càn Long Đế trong địa cung của Dụ lăng, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần hoàng hậu, Triết Mẫn Hoàng quý phi và Thục Gia Hoàng quý phi. Thần vị của bà được đặt ở trung tâm Tây Noãn các trong Long Ân điện (隆恩殿), phía Tây là bài vị của Thục Gia Hoàng quý phi, và phía Đông là bài vị của Triết Mẫn Hoàng quý phi.

Gia tộc hậu đãi

Vào năm Gia Khánh thứ 23 (1819), Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế đem dòng họ Tương Hoàng kỳ Cao thị đổi ngọc phả, chính thức sửa tên họ thành Cao Giai thị (高佳氏) cho phù hợp với vị thế Mãn Châu thế gia.

Em trai bà Cao Hằng cùng con trai Cao Phát (高朴), sau khi Tuệ Hiền Hoàng quý phi qua đời bị tội ở triều Càn Long và bị xử tử, song gia đình Cao thị vẫn giữ nguyên địa vị vốn có. Con trai thứ Cao Phương (高枋), Cao Thức (高栻) và Cao Kỷ (高杞) đều vẫn duy trì hôn nhân với gia tộc quyền quý, cụ thể là Cao Kỷ nhậm đến Tổng đốc Thiểm Cam, lại lấy con gái thứ 9 của Tổng đốc Ái Tất Đạt (愛必達) của Nữu Hỗ Lộc thế gia. Con trai Cao Trác (高焯) cũng lấy con gái nhà Hoằng Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc. Thẳng đến hai triều Đạo QuangHàm Phong, gia tộc Cao Giai thị vẫn giữ vững vị trí thế gia liệt tộc.

Ngoài ra, nhánh của Cao Thật Minh, bá phụ của Tuệ Hiền Hoàng quý phi vẫn tiếp tục được thiện đãi, thậm chí có phần cao hơn nhánh của Cao Bân. So ra như vậy, dòng dõi Tuệ Hiền Hoàng quý phi vẫn tiếp tục hưng thịnh suốt đời Thanh.

Truy điệu và tế văn

Tuệ Hiền Hoàng quý phi luôn được Càn Long Đế tiếc thương.

Tuệ Hiền Hoàng quý phi đại tế văn:

翊宣坤教,资婉娩以凝庥;协赞壸仪,式柔嘉以起化。绻(此字为:耳卷)怀淑范,申锡翼(此字为:横山+粉+大)章。尔慧贤皇贵妃高氏,诞育名门。克膺德选,率天家之礼度;允称翟褕,佩女史之箴铭。尤耽文翰,夙承皇考之恩眷,封以侧妃。懋赞朕躬,而谦和深谐中壶。班阶既贵,温良常浃於六宫;褒誉方隆,惠好更周乎九御。宜享和平之福,岂期痰疾之侵,竟谢年华,弥怀轸恻,于戏。功分内治,空陈象服之辉煌;谥表遗徽,载布龙文之焕爤。灵其不昧,尚克歆承。

— Nguyên văn tế bằng lối văn cổ

Phụ tá tuyên giáo nữ tính nghi tắc, thiên tư ủy uyển nhu mỹ đắc đáo thượng thiên đích tí hộ. Hiệp trợ cung trung nội trị, kỳ phạm nhu hòa mỹ thiện lai dẫn đạo hậu cung phong thượng. Vi miến hoài thiện mỹ đích bảng dạng....

Nhĩ Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị, xuất tự danh môn, năng cú tiếp thụ dĩ đức hành vi tiêu chuẩn đích tuyển bạt, thành vi tuân thủ hoàng gia đích lễ nghi pháp độ đích biểu suất. Dữ địa vị tương xưng, thường thuyết xuất lệnh nhân tâm duyệt thành phục đích nữ sử bàn đích quy giới chi ngôn. Vưu kỳ hữu tài hoa thiện văn thải, tảo tại tiềm để tựu thừa Hoàng phụ đích ân quyến, phong vi Trắc Phúc tấn. Cần phấn nỗ lực đích hiệp trợ Trẫm, tịnh thả đối hoàng hậu khiêm tốn bình hòa dữ tha phối hợp đắc đương phi thường hòa hài. Tại hậu cung vị phân dĩ kinh phi thường tôn quý, khước năng cú tại hậu cung ôn hòa thiện lương đích dung hiệp tương xử; sở thụ đích bao tưởng hòa thanh dự chính tôn sùng thịnh đại, khước năng cú tại hậu cung tố đắc canh gia hữu hảo chu toàn. Bổn lai chính cai hưởng thụ giá hòa bình đích phúc khí, thùy tưởng đáo cựu bệnh phục phát, cánh tại đại hảo niên hoa bệnh thệ. Ngã mãn hoài tư niệm địa bi thống a.

Nhĩ hữu công vu nội trị, không bãi trứ di tượng lễ phục quang thải đoạt mục; gia thụy hào biểu đạt di lưu đích mỹ hảo, dã chỉ hữu mỹ hảo văn chương văn thải xán lạn. Như quả nhĩ tại thiên chi linh hữu tri, thỉnh hưởng dụng cung phẩm.

— Dịch âm theo bạch thoại từ văn tế[13]

Tuệ Hiền Hoàng quý phi vãn thi, gọi là Tuệ Hiền Hoàng quý phi vãn thi điệp cựu tác xuân hoài thi vận (慧贤皇贵妃挽诗叠旧作春怀诗韵), chính là do Càn Long Đế đích thân sáng tác.

Cái chết của Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao Giai thị, đối với Càn Long Đế là một nỗi đau khó quên

序:昔谢恵连不得志,于时而有秋怀之作,去年三春无雨忧怀悒欝,因题春怀诗,今岁三白兆于冬万物,熙于春宜,其愉恱舒适矣,而伤逝之感不能释于情,叠韵志怀兼以自讼。
牛女岁一会,讵云隔天汉。
崦嵫虽下舂,扶桑复明旦。
人生赴壑蛇,去势谁能绊。
永惟王衍言,言笑忆晏晏。
更虑汉武事,空贻后人案。
双双梁上燕,队队滩头雁。
时或失乳巢,亦或别沙岸。
况曽赋抱裯,尝经陪曲宴。
忧农予悒欝,强慰予之畔。
频进徐妃箴,未怨班姬扇。
廿年如一日,谁料沉疴臶。
嘱我为君难,不作徒背面。
悼淑励不伤,亏盈月规半。
徘徊虚堂襟,小星三五烂。
有愧庄叟达,匪学陈王叹。
....
....
....
Tự: Tích tạ huệ liên bất đắc chí, vu thời nhi hữu thu hoài chi tác, khứ niên tam xuân vô vũ ưu hoài ấp uất, nhân đề xuân hoài thi, kim tuế tam bạch triệu vu đông vạn vật, hi vu xuân nghi, kỳ du 恱 thư thích hĩ, nhi thương thệ chi cảm bất năng thích vu tình, điệp vận chí hoài kiêm dĩ tự tụng.
Ngưu nữ tuế nhất hội, cự vân cách thiên hán.
Yêm tư tuy hạ thung, phù tang phục minh đán.
Nhân sinh phó hác xà, khứ thế thùy năng bán.
Vĩnh duy vương diễn ngôn, ngôn tiếu ức yến yến.
Canh lự hán võ sự, không di hậu nhân án.
Song song lương thượng yến, đội đội than đầu nhạn.
Thời hoặc thất nhũ sào, diệc hoặc biệt sa ngạn.
Huống tằng phú bão chù, thường kinh bồi khúc yến.
Ưu nông dư ấp uất, cường úy dư chi bạn.
Tần tiến từ phi châm, vị oán ban cơ phiến.
Nhập niên như nhất nhật, thùy liêu trầm a 臶.
Chúc ngã vi quân nan, bất tác đồ bối diện.
Điệu thục lệ bất thương, khuy doanh nguyệt quy bán.
Bồi hồi hư đường khâm, tiểu tinh tam ngũ lạn.
Hữu quý trang tẩu đạt, phỉ học trần vương thán.

— Tuệ Hiền Hoàng quý phi vãn thi điệp cựu tác xuân hoài thi vận

Do Tuệ Hiền Hoàng quý phi qua đời vào ngày Điền Thương nhật (填仓日; sung lương vào kho), nên hằng năm cứ đến ngày này, Càn Long Đế đều viết thơ thương nhớ bà.

Bài đầu tiên, năm Càn Long thứ 11:


Quang xuân phong vật hòa nhân uân, nhật phùng tình sưởng tam nông hân,
Cự nữ thái giáp thù tiết lệnh, lễ tòng kỳ tục cổ sở vân,
Ưu dân chi ưu nhạc dân nhạc, ế dư ưu nhạc nhân dân thác,
Để sự gian tình nhất võng nhiên, tự vi thử niệm hề kham giả.

— Điền Thương nhật tác[14]